Thống kê
  •   Đang online
    22
  •   Hôm nay
    43
  •   Hôm qua
    25
  •   Tổng truy cập
    26201
  •   Tổng sản phẩm
    97
  • 0 - 23,000,000 đ        

    LỊCH SỬ PHÁT HIỆN

    Sâm Ngọc Linh đã được tìm thấy vào 09h ngày 18 tháng 3 năm 1973, đến nay đã gần 40 năm.

    Bốn mươi năm, một cây cỏ hoang dại sống từ khai thiên lập địa, âm thầm trên núi Ngọc Linh đã trở thành danh thảo nổi tiếng khắp trong và ngoài nước.

    Mọi người Việt nam chúng ta bây giờ ai cũng biết đất nước ta trên núi Ngọc Linhmột loài Nhân sâm quí hiếm không kém bất kỳ một loài sâm quí nào trên Thế giới như Sâm Trường Bạch của Triều Tiên, Sâm Tây Dương của Mỹ.

    Gần 50 luận án Tiến sĩ và Phó tiến sĩ đã chứng minh chân lý đó.

    Hôn nay , tôi rất vinh dự kể lại đầu đuôi việc tìm Nhân sâm Ngọc Linh như thế nào ?

    Tôi là giảng viên dạy thực vật và dược liệu tại Trường Đại học dược khoa Hà nội, khi đó tôi 30 tuổi.

    Một hôm ông Đào Thiệt, cán bộ của Vụ I - Bộ Y tế do Bác sỹ Võ Tố làm Vụ trưởng, đến tìm tôi và hỏiđi “ B” ( Tức vào Miền Nam ) được không ?

    Qua trao đổi trực tiếp với ông Đào Thiệt, tôi biết Tổ điều tra Dược liệu của khu 5 ( Miền Trung trung bộ ) đã bị tiêu diệt. Hiện không còn ai tiếp tục làm việc này, để phục vụ cho chiến tranh giải phóng Miền nam. Tôi đã nhận lời và sau đó vài tuần, chia tay với Trường Đại học Dược, với Hà nội văn hiến và hào hoa. Tôi đến Trường 105 Hoà Bình để tập leo núi, hành quân mang nặng, tập bắn súng và tìm kiếm mọi mặt ở chiến trường.

    Sau ba tháng học tập, từ Trường 105 Hoà Bình tôi đã lên đường đi vào chiến trường Khu 5 để nghiên cứu cây thuốc phục vụ cho cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Đó là thời cơ không thểlần thứ hai trong đời tôi.

    Cuộc đi bộ bắt đầu từ Bố Trạch ( Quảng Bình ) theo đường mòn  Hồ Chí Minh phía Tây Trường Sơn  trên lưu vực của các con sông Sê Lon, Sê Băng Hiêng, Sê Ca Man và vượt Sê Ca Man sang lãnh thổ Việt Nam. Về căn cứ Nước Oa và đến nhận công tác tại Ban Dân y Khu 5 ( Ban Y tế Miền Trung trung bộ, lúc đó ông Phạm Hồng làm Phó ban ).

    Trong ba tháng đi bộ theo luồng di cư của cây cỏ từ Hoa Nam theo Tây Trường Sơn đi xuống. Tôi đã thống kê được khoảng 400 loài cây thuốc,nhiều cây quí và rất quí. Điều quan trọng nhất là tôi đã khái quát được động vật và thực vật nói chung ở Tây Trường Sơn.

    Sau khi nhận công tác tại Ban Y tế Khu 5, nghỉ ngơi ít ngày, tôi đề nghị Ban cho đi tìm hiểu cây cỏ Đông Trường Sơn và ven biển Miền Trung.

    Cuộc đi đầu tiên xuống Dốc Bình Minh ( Thuộc huyện Trà Bồng – Quảng Ngãi), tôi bị sốt rét ác tính, nằm ở rừng mất một tháng thì được 5 đồng hương Hà Nội cáng vào Bệnh viện X50 Quảng Ngãi do Bác sỹ Dũng làm Viện trưởng, khoảng 2 tháng tôi mới khoẻ trở lại.

    Cuộc đi thứ hai,một Dược sỹ cùng đi đó là Kiều Viết Thiết, quê ở Thăng Bình – Quảng Nam, là Dược sỹ mới tốt nghiệp Đại học Dược khoa Hà nội. Ở Quảng Nam lúc đó vùng địch và vùng giải phóng của ta cài lẫn nhau, cho nên cuộc đi thật gian truân, liên tục bị địch săn đuổi, hết bị pháo bầy lại bị phục kích. Chính thời gian này tôi gặp nhà văn Hoàng Sơn, Hội văn nghệ của Quảng Nam cứu thoát chết đói.

    Sau cuộc điều tra dược liệu Đông Trường Sơn, tôiviết một bài tổng kết tình hình dược liệu Miền Trung trung bộ. Trong bài viếtphân tích kỹ về địa lý, về thổ nhưỡng, khí hậu, về động vật, thực vật, về luồng di cư và hội tụ của hệ sinh thái với phát hiện khoảng 800 loài cây thuốc ở cả hai sườn Đông và Tây Trường Sơn. Phần kết luận đã phỏng đoánthể tìm được các cây thuốc thuộc Họ Nhân sâm trên núi Ngọc Linh là ngọn núi cao nhất trên dãy Trường sơn.

    Bài viết này được đọc tại Đại học Dược toàn Khu 5thành phần đại biểu của 9 tỉnh Miền Trung trung bộ. Họp vào tháng 6 năm 1972, tại Trà My ( Quảng Nam ).

    Căn cứ vào bản báo cáo này, Ban Y tế Trung trung bộ dưới sự lãnh đạo của khu uỷ Khu 5 ( lúc đó ông Võ Chí Công làm bí thư ) đã thành lập Đoàn điều tra Nhân sâm và Dược liệu nói chung trên vùng núi Ngọc Linh.

    Thành phần4 người :

    DS. Đào Kim Long – Trưởng đoàn

    KS. Nguyễn Bá Hoạt

    DS. Nguyễn Châu Giang

    DS. Trung học – Trần Thanh Dân

    Sáng 15 tháng 10 ( âm lịch ) năm Nhâm tý ( 1972 ) hết mùa mưa, chúng tôi bắt đầu đi bộ, vượt từ Đông về Tây Trường Sơn. Ngày 27 tháng 12 ( âm lịch ) chúng tôi đến Ban Y tế tỉnh Kon Tum, chúng tôi được DS. Sĩ ( ông Sĩ già ) là uỷ viên Ban của tỉnh phụ trách dược, tiếp và tổ chức cho chúng tôi ăn tết.

    Sau tết chúng tôi được lệnh từ khu hoãn cuộc đi lên Ngọc Linh và quay xuống Đăk Tô để chống địch cho dân mới được giải phóng sau trận đánh nổi tiếng ở Đak Tô - Tân Cảnh. Qua hơn một tháng đi chống địch, chúng tôi tiếp tục lên Ngọc Linh.

    Đoàn chúng tôi tổ chức thành hai nhóm, nhóm I tôi phụ trách cùng với Nguyễn Châu Giang và cô Lê là Dược sỹ trung học được đào tạo sở phía Nam ( là người của Ban Y tế Kon Tum ). Nhóm II do KS. Nguyễn Bá Hoạt phụ trách cùng với DS. Trung học Trần Thanh Dân ( sau này Trần Thanh Dân bị ốm không đi được và Nguyễn Bá Hoạt đi một mình ).

    Nhóm của tôi đi đến H80 ( tức mã số chỉ huyện ) được ông Loan – Phó Chủ tịch H80 tiếp và tổ chức một buổi gặp gỡ để tôi nói chuyện với tất cả các già làng, trưởng bản trong H80 về thuốc Nam và cách chữa bệnh, phòng bệnh bằng thuốc Nam ở làng Đắc Rơ Man ( Dịp này tôi đã làm lễ kết nghĩa anh emvới già làng Đắc Rơ Man ). Sau này tôi  mới hiểu ý nghĩa chính của cuộc gặp mặt này là ngầm giới thiệu tôi với nhân dân các dân tộc trên núi Ngọc Linh, để họ biết và bảo vệ chúng tôi.

    Ngày 18 tháng 3 năm 1973, ở độ cao khoảng 1.800m, tôi đang đi bỗng thấy Nguyễn Châu Giang chạy vượt lên hỏi tôi : Thầy ơi, cây gì đây ? Tôi bàng hoàng như không tin đây là sự thật, hỏi lại : Em lấy ngọn cây này ở đâu ? Giang dẫn tôi quay lại độ mươi bước chân và thế là chúng tôi đã gặp được cây Nhân sâm đầu tiên trên núi Ngọc Linh. Nhìn đồng hồ lúc đó là 9 giờ sáng. Tôi nói nhỏ chỉ để cho Châu Giang nghe : Đây là cây chúng mình đang đi tìm đấy !

    Chúng tôi muốn đem bí mật này về đến khu.

    Ở lại đây chừng 3 giờ để tìm xembao nhiêu cây và thống kê các cây cỏ cùng mọc trong hệ sinh thái ở đó, chúng tôi thu thập mẫu, chụp ảnh, ép tiêu bản và ghi chép các số kiệu khoa học vào nhật ký điều tra.

    Sau bữa ăn trưa tôi quyết định lên cao tiếp , 17 h cùng ngày hôm đó, khi đỗ ba lô xuống bên một dòng suối, ba lô đã đè lên thảm Nhân sâm dày đặc, gần như thuần chủng, mọc xanh tốt, nở hoa thơm ngan ngát, ong đến lấy mật vi vu. Đúng giờ ấy chúng tôi đã đến Trung tâm của vùng Sâm Ngọc Linh. Dựng nhà tăng ngay bên suối, sợ dẫm gẫy những cây sâm, chúng tôi đã khai thác một lối đi xuống suối để lấy nước.

    Đến địa điểm lý tưởng này, chúng tôi đã hết gạo, nhưng tôi vẫn quyết định ở lại tiếp tục nghiên cứu, suốt 15 ngày sau đó chúng tôi sống bằng rau rừng, nước Nhân sâm, khoai lang rừng, mật ong và nhộng ong.

    Chúng tôi không bỏ qua một chi tiết nào về đất đai, khí hậu, vùng vi khí hậu, các đặc điểm sinh thái, khă năng trồng và tái sinh, đặc điểm di cư phát tán…

    Lúc đó tôimấy kết luận sau :

    • Cây Nhân sâm Ngọc Linh thích nghi nhất với lớp mùn đọng ở các khe đá trên núi.
    • Phân tán di cư chủ yếu nhờ dòng nước cuốn trôi đi theo dọc các con suối.
    • Nhiệt độ sống ổn định không quá 220C và không quá lạnh nhờ điều hoà nhiệt độ của các con suối từ trên núi xuống.
    • Ánh sáng khuếch tán dưới một khu rừngcây cao lá kim và cây rụng lá mùa đông.
    • Câythể mọc lên tái sinh nhờ thân rễ.

    Những kết luận trên nhằm mục đích sau này vừa khai thác vừa nuôi trồng và phát triển.

    Khi nghiên cứu về cách thích nghi và cách phân tán di cư của Nhân sâm Ngọc Linh đi theo các dòng suối từ trên đỉnh núi xuống. Chúng tôi thấy rằng Nhân sâm Ngọc Linh khôngbằng chứng đã di cư từ Hoa Nam xuống hoặc từ Ấn Độ, Malaixia sang. Đây chắc là một loài Sâm ( Panax ) đặc hữu của núi Ngọc Linh. Chính thời điểm này, tôi và Nguyễn Châu Giang đang tha thẩn dọc suối để nghiên cứu sự phát tán và di cư của Nhân sâm Ngọc Linh thì bị dân bản gần đấy nghi là biệt kích và bị bắt về bản. Rất may già làng nhận đã gặp tôi ở Đắc Rơ Man, nên được tha và cho thêm một gùi khoai lang, thế là chúng tôithêm lương thực để tiếp tục nghiên cứu.

    Khi đã thu đủ số liệu khoa học và thu phơi khoảng 15kg Sâm, trong đócủ 72 năm tuổi, chúng tôi quyết định trở về, lòng đầy lưu luyến với khu vực rừng núi thần tiên này.

    Về tới Ban dân y Kon Tum, cô Lê đã tiết lộ việc phát hiện Nhân sâm nên bắt buộc chúng tôi phải bàn giao kết quả điều tra cho Ban y tế tỉnh Kon Tum và điện về khu để báo cáo.

    Nhận được tin này Ban Y tế Khu 5 và khu uỷ rất mừng và lệnh cho chúng tôi về ngay.

    Khi về cũng thật gian truân, muối hiếm, gạo ít, lại phải mang nặng thêm, nào sách, nào máy ảnh, súng đạn, bản đồ, địa bàn, tiêu bản, mẫu các cây thuốc và khoảng 15kg củ Nhân sâm phơi khô cộng với ăng gô, dao găm, tăng, võng…

    Hơn sáu tháng trèo núi, lội suối, ai cũng đã thấm mệt, về đến ngọn Sông Tranh thì gạo hết, muối còn độ nửa lon, súng còn mươi viên đạn, ba anh em ( Long + Hoạt + Giang ) đều khật khừ sốt rét, phải vừa đi vừa mò cá, bắt ốc suối để ăn ( Trần Thanh Dân phải nằm lại Kon Tum ).

    Một lần mò cá ở ngọn Sông Tranh, tôi bị nước cuốn trôi, dòng nước lạnh buốt chạy như ngựa, đã kéo tôi cuồng loạn giữa những hòn đá ghềnh to như đống rơm, đống rạ, trơn tuột bầy ngổn ngang, trên mặt sông như trận đồ bát quái. Tôi giơ tay về phía trước để đầu khỏi đập phải đá, còn mặc cho nước kéo đi, lao qua hết ghềnh này thác khác. Hoạt và Giang chạy theo trên bờ.

    Được vài ba kilomet dòng nước ném tôi xuống một thác cao, dưới chân thác là một vực sâu và rộng, dòng nước xoáy tròn, lừ đừ như nghỉ lấy sức trước khi tiếp tục cuộc hành trình về biển.

    Tôi ngoi lên được một tảng đá cạnh bờ, ngồi trên đó với hai đầu gối sưng vù, quần áo rách nát. Hoạt và Giang hốt hoảng chạy theo dến nơi, mắt ngơ ngác tìm  kiếm. Khi nhìn thấy tôi đang ngồi ngóng đợi cùng cười và nói : “ Chúng em tưởng anh chết “. Hai người xuống dìu tôi lên bờ, khi đó Hoạt động viên tôi nói “ Hôm nay mà anh chết ở đây, mai kia thống nhất đất nước chúng em sẽ xây một đài tưởng niệm để ghi công anh là người đầu tiên tìm ra Nhân sâm trên núi Ngọc Linh “.

    Tôi gượng cười và trả lời : “ Đau bỏ mẹ, tưởng với nhớ gì, mà chắc gì các chú còn sống đến lúc đó “.

    Hơn hai năm sau, khi chúng tôi ở ngọn Sông Tranh, Miền nam thật sự được giải phóng và đến bây giờ đã 30 năm, chúng tôi sống cả, rất may là chưa phải xây dựng một đài tưởng niệm nào ? Mỗi chúng tôi vẫn còn sức để bơi hoặc còn sức để không bị cuốn trôi vào các dòng sông đầy cám dỗ khác của cuộc đời những người cán bộ khoa học.

    Ngày 27 tháng 5 năm 1973 về tới khu căn cứ Trà My ( Quảng Nam ), anh Phạm Hồng, anh Trần Lai và các anh chị ở Ban dân y Khu 5 mừng đón chúng tôi và đề nghị sang ngay khu uỷ để báo cáo cho khu uỷ mừng. Nhưng anh em chúng tôi mệt quá không thể đi được và khất đến hôm sau.

    Sáng sớm hôm sau tức ngày 28 tháng 5 năm 1973, ông Võ Chí Công – Bí thư Khu uỷ và ông Chín Liêm – Phó bí thư Khu uỷ đã trực tiếp đến Ban dân y khu ( mà không chờ chúng tôi sang khu uỷ ) để trực tiếp cùng Ban lãnh đạo dân y khu nghe tôi báo cáo và trực tiếp xem xét kết quả nghiên cứu của chúng tôi.

    Một ba lô củ Nhân sâm, các tiêu bản, ảnh chụp, tài liệu tổng kết nghiên cứu … Tất cả Ban Y tế  Khu 5 đã thu và gửi ra Hà Nội.

    Mọi việc trong chiến tranh đều làm theo mệnh lệnh, các tài liệu ấy đến tay được Dược sỹ Nguyễn Thới Nhâm từ lúc nào ngoài Bắc chúng tôi không được biết. Chính các tài liệu ấy đã là điểm xuất phát để Dược sỹ Nhâm đạt tới học vị Tiễn sĩ và Giám đốc đầu tiên của Viện Nhân sâm Việt Nam.

    Đầu năm 1974, tại khu căn cứ Trà My, lúc đó tôi là “ Giám đốc “ K65 ( tức cơ quan nghiên cứu Dược liệu và kiểm nghiệm thuộc Ban Y tế Trung trung bộ ).một lần nhận được thư và ảnh chụp các bản sắc ký về hoạt chất của Nhân sâm Ngọc linh, đối chiếu với Nhân sâm Triều Tiên được thực hiện ở Viện Dược liệu Hà Nội ( đến bây giờ 2003, tôi vẫn chưa một lần được gặp Tiễn sỹ Nguyễn Thới Nhâm ).

    Sau khi tìm ra Sâm Ngọc Linh, việc khó khăn nhất là xác định tên khoa học của nó. Việc ấy ngay ở Hà Nội bấy giờ còn khó khăn, kể chi chiến trường lúc đó. Nhưng với kinh nghiện của nhiều cuộc điều tra dược liệu tại Miền Bắc, nhất là cuộc điều tra Nhân sâm ở Hoàng Liên Sơn ( Simakai, Mường Khương, Bát Sát, Sa Pa, Bắc Hà ), cộng với việc phân tích đặc điểm phân tán và di cư của Nhân sâm Ngọc Linh, tôi thấy cây Sâm Ngọc Linh không thể đi từ nơi khác đến mà là một cây bản địa và đặc hữu của Ngọc Linh, nên căn cứ vào hình dáng thân rễđốt, tôi đã đặt tên cho nó là Panax articulatus Kim Long Đào ( không ngờ tên cây như thế lại trùng tên với một loài Nhân sâm của Trung Quốc ), việc này mãi sau tôi mới biết.

    Các tài liệu gửi ra Bắc lúc đó về Bộ môn Thực vật Đại học Dược khoa Hà Nội về Giáo sư Đỗ Tất Lợi. Cây Nhân sâm Ngọc Linh đều được mang tên như vậy ( Bản viết tay gửi Giáo sư Đỗ Tất Lợi còn giữ được đến bây giờ ).

    Sau này Hà Thị Dung cùng nhà khoa học Liên Xô A.G. Ruski căn cứ vào tài liệu đầy đủ đã xác định là một loài Nhân sâm mới của Thế giới lần đầu tiên gặp ở Việt Nam. Và đã đặt tên là Panax vietnamensis Ha. Et. A. G. Ruski ( Việc này được công bố vào giữa thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Sau khi cây sâm được phát hiện hơn 10 năm ).

    Cây Nhân sâm Ngọc Linh hay Nhân sâm Việt Nam lần đầu nó mang tên là Panax articulatus Kim Long Đào và sau này mang tên Panax vietnamesis Ha. Et. A. G.Ruski là hai tên đồng danh đã phát hiện vào 9h sáng ngày 18 tháng 3 năm 1973. Đó là sản vật quí của Ngọc Linh.

    Công đầu ấy, niềm vinh quang ấy thuộc về Đảng bộ và Ban Y tế Khu 5, thuộc về nhân dân xung quanh núi Ngọc Linh. Trong đósự đóng góp của những chiến sĩ giải phóng Miền Nam chúng tôi.   Đến hôm nay sau gần 40 năm tìm ra nó, các nhà khoa học kế tiếp nhau trong các luận án Phó tiến sĩ, Tiến sĩ của mình đã chứng minh hùng hồn rằng Nhân sâm Ngọc Linh là cây bản địaViệt Nam, đặc hữu ở rừng núi Ngọc Linh, là một loại sâm tốt nhất thế giới, không thua kếm gì Sâm Trường Bạch ( Triều Tiên ), không thua kém Sâm Tây Dương của Mỹ. Tên tuổi của nó đã vượt ra ngoài lãnh thổ Việt Nam.

    Với tư cách một người đầu tiên phát hiện Nhân sâm Việt Nam, tôi đề nghị :

    • Ghi tên Panax articulatus Kim Long Dao là tên đồng danh của Panax vietnamensis Ha. Et. A. G. Ruski.

    Đây là tiền lệ của tên nhiều cây cỏ trong nước và thế giới, từng được ghi trong thực vật chí để nói rõ lịch sử của một cây.

    Lấy tên Nhân sâm Ngọc Linh làm thương hiệu cho Nhân sâm Việt Nam. Giống như lấy tên Sâm Trường bạch là tên thương hiệu của Sâm Triều Tiên.

    Vì sau nay Nhân sâm Việt Namthể được di thực đến nhiều địa điểm khác trong hay ngoài nước.

    Cuối bài viết này cho tôi được bày tỏ lòng biết ơn Đảng và nhân dân chín tỉnh Miền Trung trung bộ đã giúp đỡ chúng tôi suốt 5 năm trong điều kiện chiến tranh ác liệt để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của mình.

    Từ một thanh niên lúc đó mới 33 tuổi, nay tôi đã 68 tuổi, râu dài tóc bạc nhưng tình cảm với nhân dân Trung trung bộ vẫn nồng nàn đằm thắm như ngày nào tôi kết nghĩa anh em với Già làng Đắc Rơ Man, tình cảm đó sẽ không bao giờ phai lạt.

     

    Nguồn: Namydaopham

     

    Định hướng bảo tồn và phát triển cây Sâm Ngọc Linh thành sản phẩm quốc gia

    Trung Anh

    Sâm Ngọc Linh là loại dược liệu quý hiếm, là cây thuốc “giấu” mà đồng bào dân tộc sử dụng từ lâu đời để bồi bổ cơ thể, chữa bệnh. Năm 1973,  Đoàn điều tra dược liệu của Ban dân y khu 5 phát hiện, đến năm 1985 Hà Thị Dụng và Grushvitsky xác định sâm Ngọc Linh là một loài mới, đặc hữu của hệ thực vật Việt Nam, thuộc chi Panax L., họ nhân sâm (Araliaceae) và đặt tên khoa học là Panax vietnamensis Ha et Grushv (Theo Trung tâm Sâm Việt nam - 1993).

    Trước đây, do những bất cập trong chính sách và công tác quản lý, cây sâm Ngọc Linh trong tự nhiên hầu như bị khai thác cạn kiệt vànguy cơ tuyệt chủng,  hiện thuộc 250 loài quý hiếm trong sách đỏ Việt Nam. Cây Sâm Ngọc Linh sinh trưởng và phát triển rất chậm (thường sau 5 - 7 năm trồng mớithể khai thác sản phẩm). Vì vậy, việc bảo tồn và phát triển loài thực vật quý hiếm này đã đặt ra nhiều vấn đề đáng quan tâm đối với các nhà khoa học và các nhà quản lý. Đây là nhiệm vụ vừa quan trọng, vừa cấp bách,ý nghĩa đặc biệt về mặt kinh tế, xã hội và đa dạng sinh học.

    Nhận thức đúng đắn về giá trị kinh tế, xã hội, khoa học và môi trường của cây sâm Ngọc Linh, cách đây gần 30 năm tỉnh Kon Tum đã xác định đây là cây hàng hóa chủ lựclợi thế cạnh tranh cao trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Tỉnh Ủy, HĐND-UBND tỉnh, trong những năm qua, Sở Khoa học và Công nghệ đã phối hợp các ngành liên quan, các nhà khoa học trong và ngoài tỉnh triển khai nhiều đề tài, dự án nghiên cứu việc bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh.

    Năm 1997, UBND tỉnh Kon Tum tổ chức Hội thảo phát triển cây sâm Ngọc Linh đề ra định h­ướng và chỉ đạo xây dựng đề án phát triển loài dược liệu quý hiếm này. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa ph­ương đã ban hành các chính sách ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội, chỉ đạo trồng, bảo vệ và phát triển cây sâm thành sản phẩm hàng hóa, góp phần nâng cao đời sống của người dân tại vùng phân bố Sâm tự nhiên. Thông qua các ch­ương trình, dự án đã giao đất khoán rừng, tuyên truyền về giá trị của cây Sâm, từ đó nâng cao nhận thức cho đồng bào tại vùng Sâm, hạn chế việc khai thác Sâm bừa bãi và làm cho ngư­ời dâný thức việc bảo vệ và phát triển. Đến nay, trong nhân dân đã những chuyển biến về mặt nhận thức và nhiều hộ gia đình đã bắt đầu đư­a cây Sâm vào trồng với qui mô gia đình.

    Năm 2001, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Kon Tum đã phối hợp với Viện D­ược liệu (Bộ Y tế), Trung tâm Nghiên cứu trồng và Chế biến cây thuốc (Hà Nội), Lâm tr­ường Ngọc Linh ( nay là Công ty TNHH MTV Đăk Tô) triển khai thực hiện dự án “Nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất giống, kỹ thuật trồng và quy hoạch phát triển cây sâm Ngọc Linh tại Kon Tum”. Dự án đã tập trung xây dựng vườn sâm giống (ở độ cao 1.900 - 2.000 m) trên diện tích gần 1,12ha với hơn 60.000 cây sâm giống để phát triển vùng sâm trồng của tỉnh. Đồng thời, đã chuyển giao trên 13.550 cây sâm giống cho 24 hộ gia đình tại xã Ngọc Lây (huyện Tu Mơ Rông) trồng thử nghiệm để triển khai nhân rộng. Thông qua dự án cũng đã xây dựng được quy trình nhân giống bằng hạt và quy trình kỹ thuật trồng sâm bán tự nhiên, phát triển mô hình đến các hộ nông dân vùng sâu, vùng xa, từng b­ước nghiên cứu trồng sâm ở mô hình trang trại để phát triển nhanh diện tích trồng sâm Ngọc Linh và đề xuất quy hoạch phát triển. Đã tiến hành quy hoạch sơ bộ tại các xã  Măng Ri, Ngọc Lây, Ngọc Yêu, Đăk Na, Mường Hoong, Ngọc Linh với diện tích 66.830 ha, ở nhiệt độ trung bình năm 180C ; ẩm độ từ 82 - 87% và độ cao trung bình từ 2.100 - 2.800m, tại các tọa độ địa lý : 16o38’ - 16o85’ độ vĩ Bắc và 107o99’ - 108o40’ độ kinh Đông. Kết quả của dự án bư­ớc đầu đã khôi phục vư­ờn sâm giống khả năng cung cấp giống mở rộng qui mô trong thời gian tới. Mô hình trồng sâm trên vùng sinh trư­ởng tự nhiên và bán tự nhiên cho thấy cây sâm sinh trưởng và phát triển tốt, đầu tư­ ít, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Sâm giống được giao cho từng hộ gia đình trồng, chăm sóc và quản lý đã phát huy đ­ược ý thức trách nhiệm của từng hộ. Đây là mô hình nếu được đầu t­ư thỏa đáng sẽ mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần xóa đói giảm nghèo cho các hộ gia đình sống ở vùng núi Ngọc Linh.

    Năm 2004, Chính phủ đã cho chủ trương đầu tư kinh phí thực hiện Dự án Bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh đến năm 2014, tổng vốn đầu tư trên 9,8 tỷ đồng, đến nay đã đường ô tô vào đến khu vực trồng sâm và mở rộng diện tích vườn sâm giống lên hơn 4,38 ha. Bên cạnh đó, UBND huyện Tu Mơ Rông bằng các nguồn vốn khác nhau của các chương trình đã đầu tư hỗ trợ cây sâm giống cho nông dân trồng ở quy mô hộ gia đình đã mở rộng diện tích trồng sâm thêm 3 ha (năm 2007).

    Năm 2006, Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt đề tài: Nghiên cứu nhân giống vô tính và sản xuất sinh khối rễ cây sâm Ngọc Linh, với tổng kinh phí đầu tư 1,7 tỷ đồng. Viện Sinh học Tây nguyên đã phối hợp với Trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ tỉnh Kon Tum đã nghiên cứu nhân giống in vitro cây Sâm Ngọc Linh và trồng thử nghiệm cây Sâm nuôi cấy mô ra tại xã Tê Xăng (huyện Tu Mơ Rông) và Bidunop Núi Bà (Lâm Đồng). Kết quả đề tài bước đầu cho thấy cây sâm Ngọc Linh nuôi cấy mô đã sinh trưởng và phát triển  tốt trên những vùnghệ sinh thái đặc trưng tương đồng với các điều kiện sinh thái của cây sâm Ngọc Linh sống ngoài tự nhiên không những ở quanh đỉnh Ngọc Linh mà được di thực trồng tại Bidunop Núi Bà ( Lâm Đồng) cũng cho kết quả khả quan. Trong thời gian không xa nữa đề tài hoàn tất tháng 7/2011, chúng tathể chủ động được nguồn giống sâm Ngọc Linh với qui mô lớn và chọn được cây giống tiêu chuẩn. Đồng thời công nghệ sản xuất sinh khối rễ sâm bằng hệ thống Bioractor được triển khai nhân rộng mô hình thành sản phẩm hàng hóa.

    Bên cạnh việc bảo tồn và phát triển cây sâm Ngọc Linh, trong những năm 2006-2008, UBND tỉnh đã định hướng và chỉ đạo Sở Khoa học Công nghệ liên hệ với Cục Sở Hữu trí tuệ để được hướng dẫn các thủ tục thực hiện dự án: Xây dựng chỉ dẫn địa lý " Ngọc Linh" cho sản phẩm sâm củ của hai tỉnh Kon Tum và Quãng Nam. Đến nay việc đăng ký chỉ dẫn địa lý sâm Ngọc Linh cơ bản đã hoàn thành. Việc xây dựng chỉ dẫn địa lý được đăng ký giới hạn trong vùng trồng sâm truyền thống, các vùng địa lý còn lại sẽ được tiếp tục nghiên cứu sau khi chỉ dẫn địa lý "Ngọc Linh" được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Đăng ký và phát huy tác dụng. Việc lựa chọn như vậy sẽ nhanh hơn chính xác hơn và đỡ tốn kém.

    Nhìn lại chặng đường hơn 35 năm qua,thể nói rằng  một chặng đường gian nan vất vả với việc bảo tồn và phát triển cây Sâm Ngọc Linh,những giai đoạn tưởng chừng như thất bại, đến nay với những chủ trương, chính sách đúng hướng của tỉnh và những kết quả dày công nghiên cứu của các nhà khoa học đã hội tụ những điều kiện cơ bản nhất: cơ sở pháp lý, cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn để cây Sâm Ngọc Linh được bảo tồn, phát triển và thoát khỏi nguy cơ tuyệt chủng, đồng thời cũng hội đủ các cơ sở để cây sâm Ngọc Linh mở rộng qui mô di thực đến các vùng lân cận trở thành sản phẩm quốc gia, lúc bấy giờ Sâm Ngọc Linh không chỉ là loài sâm quí của Việt Nam, mà còn của cả thế giới./.

    Vui lòng đợi ...

    Đặt mua sản phẩm

    Xem nhanh sản phẩm